Thứ Ba, 30 tháng 8, 2011

Giải Đáp Một số thắc mắc thông thường liên quan đến tâm trạng

-  Ngại thiếu chất đạm bạch tố (Proteines) thuộc động vật :             Các chất đạm bạch tố thực vật đã có đủ, các acid anime strong loại ngũ cốc và rau quả như:  Biến đậu (Lentilles), đậu xanh chẳng hạn đủ bổ túc cho chỗ thiếu thốn ấy.  Một vài loại thảo mộc có giá trị bổ túc cho đồ ăn ngũ cốc hơn hẳn các món ăn thịt cá, hoặc sữa như bánh dầu mè (xác mè sau khi ép lấy dầu rồi), hay xác dầu quỳ (công cuộc khảo cứu của bà Randoin).  Nó chỉ thua có mỗi một thứ đản bạch tố ở trứng mà thôi.  Các đồ ăn bổ túc cho loại ngũ cốc là những đồ ăn mang tới cho cơ thể những chất không có trong ngũ cốc.   - Sợ thiếu sinh tố C chăng?             Các cuộc khảo cứu thảo mộc mới đây ở Nhật và ở Anh đã chứng tỏ rằng trong các loại ngũ cốc (Paoviatamine C) sự chịu nóng tới ngoài 150 độ và cơ thể người ta có thể tổng hợp và chuyển hóa nó thành sinh tố C.             Ngoài ra, trong các thức ăn, thực dụng như ngò tây (persil) và bồ công anh (Pissenlit) chẳng hạn, người ta cũng nhận thấy có nhiều sinh tố C trong cám hay cà chua (tomate) và được kèm với một hàm lượng phong phú tương đương về sinh tố A.             Các sinh tố khác thì đều có đầy đủ cả.  Đại loại như sinh tố B và PP có nhiều trong các loại ngũ cốc và sinh tố E trong mầm ngũ cốc.  Về sinh tố D thì trong mầm các loại ngũ cốc còn nguyên cám và trong bột kiều mạch (Flocon Davoine).             Còn lại các sinh tố thuộc nhóm F do nơi các acid béo bất bão hòa trong các loại dầu thảo mộc sinh ra.  Các acid béo giúp đắc lực cho sự biến hóa chất Cholesterol ở cơ thể người.  Các thức loại nên dùng: dầu mè (vừng) và dầu quỳ (Tourynesil) cả dầu Ô liu (cảm lảm) nữa.  Trong các chất béo có nguồn gốc động vật và chất magarine.  (loại mỡ trứng) đều có tác dụng độc hại.  (công cuộc khảo cứu của bà Randoin đăng tải trong Công báo của Viện Vệ sinh thực phẩm năm 1975).   - Sợ sự hạn chế nước uống sẽ làm cho thận mệt chăng?             Trái hẳn lại, chúng ta hãy nhớ lại những kết quả tuyệt hảo trong thực chế khô của Volhard trong việc chữa trị chứng sưng thận cấp tính khuếch tán (Người Đức đã dùng từ 7 đến 10 ngày để áp dụng thực chế khô này) Ngoài ra, thận tạng có khả năng bài tiết chất muối (CINa) trội hơn khả năng người thường tưởng tới.  Thận tạng của người có thể thải ra cứ mỗi lít nước tiểu la 30 gram CINa và còn hơn thế nữa.  Cho dù ăn 4, 5 muỗng cà phô muối mè mỗi ngày cũng không dung chứa tới trên 10 gram CINa mỗi ngày, đó là điều rất thường.   Kết Luận:             Cơ bản của thực chế này là đúng theo cơ bản các phép dinh dưỡng cổ truyền của phần đông dân chúng nông thôn vạm vỡ ở Âu châu, ở các xứ Đông Dương, nhất là ở miền cực Đông.  Sự quân bình dinh dưỡng ấy đã bị đảo lộn ở Tây Phương.  Ở đây chỉ có thể sửa đổi gia giảm một cách rất khôn ngoan.             Các yếu tố có thể thay đổi được trong phép ăn này tùy theo tạng thể hoặc căn bệnh, là số lượng nước và muối, rồi đến tỷ độ tương quan về số lượng đồ ăn ngũ cốc và rau quả, là sự chọn lựa một số ngũ cốc hoặc rau quả, và dĩ nhiên thời kỳ cần phải thay đổi các tỷ lượng giữa những yếu tố này cho thích hợp với người bệnh.

Clb Network Marketing
Clb Internet Marketing
Clb Sức Khỏe

Network Marketing Powerful
Secrets Internet Marketing
Tool Internet Marketing

Chủ Nhật, 28 tháng 8, 2011

Các loại rau quả và gia vị nên dùng :

+Cà rốt, củ cải, bí ngô, hành tỏi, kiệu tây, bắp su trắng, rau dền, rau xà lách son, rau má, rau bồ ngót, cải bẹ xanh v.v… (rau củ mọc thiên nhiên và rau củ sạch không sử dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu) +Nước uống:  Nước thiên nhiên trà bancha, trà gạo lức, trà củ sen, trà bồ công anh. +Chất béo:  Dầu mè, dầu phộng (mức tối đa là 2 muỗng canh dầu một người một ngày) +Trái cây:  Trái gất, dâu tây, hạt dẻ, trái cây thiên nhiên và đúng mùa. +Đường:  Nếu sức khỏe ổn định thì có thể sử dụng đôi chút đường đen, đường thốt nốt, đường phèn, mạch nha.    Những thức uống, món ăn nên tránh dùng đến là: + Tất cả các loại cà, măng, giá, nấm khoai tây, đậu leo, rau bá hợp, dưa gang, bắp su đỏ, củ cải đường. + Bơ, sửa, đồ ăn chế bằng phó mát. + Trái cây:  Các đồ tươi sống và đường (trong lúc đang trị bệnh) + Gia vị:  Tiêu ớt, cà ri. + Nước uống:  Luôn luôn uống nước ấm (khoảng 37 độ C) và khoảng 3 xị (0,75 lít) trở lại.  Sau đây một số điều cần lưu lý:           Về tâm trạng:  Không vui, không khỏe thì không nên ăn và cũng không được nấu ăn.            Về đại tiện:  Phân luôn màu vàng, chặt không rã nát và đúng giờ vào buổi sáng.  Nếu là phân khác là âm hơn, hoặc dương hơn thì cần phải điều chỉnh lại.            Về tiểu tiện:  Phụ nữ không đi tiểu quá 3 lần trong ngày.  Nam không đi quá 4 lần trong ngày.  Lưu ý đường ruột đang tốt là một ngày chỉ đi đại tiện một lần vào buổi sáng và chỉ nên súc miệng một lần vào buổi tối (Bột chà răng).            Nước uống:  Một người quá âm, hay bệnh về gan thì nên sử dụng trà gạo lức rang và trà bồ công anh.            Trà củ sen tốt cho người bệnh phổi, trà bancha tốt cho bệnh tim mạch, đường ruột, bao tử (tốt nhất là được sự hướng dẫn của người có kinh nghiệm).            Dầu mè gừng:  Giả nát, hoặc mài gừng tươi, vắt lấy nước cốt trộn đều với một lượng dầu mè tương đương.  Dùng xoa hay đánh gió khi cảm, sốt, xoa bóp khi nhức mỏi, tức, trặc, đau bụng, sưng u, bôi lên vết lỡ ở tai, mũi, ghẻ lác, xức dầu trị gầu và rụng tóc, chỉ nên làm vừa đủ dùng trong 2-3 ngày, vì để lâu gừng thối, có mùi khó chịu, có thể dùng xen kẻ với áp nước gừng.            Cao hạ nhiệt:  Ngâm đậu nành với nước cho mềm, giả nát và trộn thêm ít bột gạo cho khỏi nhão, rồi đem đắp lên trán để hạ sốt, (xem chừng thân nhiệt hạ còn 38.5 độ thì lấy ra ngay) hoặc đắp những chỗ viêm nhức, (không dùng trong trường hợp ban, sởi, tót, rạ đầu mùa).            Bột gạo lức sống:  Nhai nhỏ gạo lức sống và hạt muối sống, hoặc giả thành bột mịn trộn nước và tí muối cho dẻo, đem đắp vào vết thương, vết lở loét, hoặc ghẻ chốc.            Những trở ngại trong dưỡng sanh, trị liệu theo pháp thực dưỡng thiên về giáo dục, chữa con người hơn là chữa bệnh.  Nghĩa là giúp bệnh nhân tự suy xét lại bản thân mình về mọi mặt từ thể chất đến tinh thần, hầu tránh đi những việc làm có hại cho mình và cho người khác, đồng thời tổ chức được một nếp sống lành mạnh, vui tươi và hữu ích hơn, bởi vậy nếu sử dụng phương pháp thực dưỡng thuần túy để chữa bệnh có tính cách tạm thời, thường sẽ không thành công theo ý muốn, sau đây là một số trở ngại cho việc áp dụng phương pháp này trong trị liệu:   1.     Quá muộn:  Đối với những trường hợp quá muộn, nghĩa là cơ thể đã suy thoái trầm trọng, ví dụ như đến mức cùng thì phương pháp thực dưỡng một đường lối trị bệnh dựa vào cơ thể chế miễn nhiễm tự nhiên có thể không đủ thời gian cứu con bệnh, tuy nhiên, nếu áp dụng phương pháp này, những bệnh nhân quá muộn vẫn hưởng được nhiều lợi ích như không bị đau đớn hành hạ và ra đi êm thắm.   2.     Thiếu niềm tin và ý chí:  Nếu không tin tưởng tuyệt đối vào những hướng dẫn của phương pháp này, bệnh nhân rất dễ sai phạm hoặc bỏ dở nửa chừng do ý kiến của những người không am hiểu vấn đề, hoặc dễ bị lôi cuốn bởi những món ăn thức uống “cấm kỵ”   3.     Thiếu nghiên cứu:  Niềm tin và ý chí được củng cố qua sự nghiên cứu lý thuyết sách báo Thực Dưỡng và học hỏi những người có kinh nghiệm, nhất là những người đồng bệnh đã và theo phương pháp này.  Đồng thời phải lưu tâm theo dõi những biến chuyển của cơ thể và vận dụng những điều đã nghiên cứu, học hỏi để lấy kinh nghiệm cho bản thân.   4.     Không được gia đình, thân nhân hỗ trợ:  Nếu những người trong gia đình bệnh nhân, nhất là những người có phận sự chăm sóc trực tiếp không hiểu biết, hoặc không đồng tình ủng hộ, thì có thể vì lòng “thương” sẽ làm “hại” diễn tiến cải thiện sức khỏe theo phương pháp Thực Dưỡng.   5.     Những sai lầm khác:  Ngoài những sai lầm đã nói như:  Nhai không kỹ, ăn nhiều, uống nước nhiều, nhịn ăn không cẩn thận, v.v… Người mới thực hành thường mắc một số sai lầm khác như:   -         Dương quá độ:  Nhiều người lầm tưởng yêu cầu của Thực Dưỡng là “Càng dương càng tốt”,  nên ra sức ăn thật mặn, cố nhịn nước dù khát, vận động thể lực tối đa, hoặc ăn toàn các món nướng, rang, chiên, dù đang trong mùa hè, v.v. sự việc này có thể vượt mức chịu đựng của cơ thể, gây ra tình trạng kiệt sức, hoặc những phản ứng mãnh liệt dẫn đến sự “phá giới” vô cùng nguy hiểm.  Các bạn nhớ cho chủ trương của phương pháp Thực Dưỡng là quân bình và chế độ.   -         Không biết linh động:  Thường đây là những người không chịu đọc sách báo Thực Dưỡng và thiếu tìm hiểu thực tế.  Thí dụ trẻ con và người già răng yếu không biết nấu nhừ, hoặc xay, giã nhỏ vật thực trước khi ăn, hoặc không biết chế biến thực phẩm cho dễ ăn, hoặc có người cứ ăn mãi gạo lức muối mè lâu ngày sinh chán, v.v…             Trong vụ này, mọi sự vật đều vận động và biến hóa không ngừng, nào ngày đêm đắp đổi, nào bốn mùa luân chuyển, khi nắng khi mưa và cuộc sống con người cũng đa dạng.  Vì vậy, để có thể tồn tại, sống vui qua năm tháng của đời người, chúng ta không nên đóng khung vào một khuôn mẫu hoặc một công thức cố định, mà phải biết thích ứng với mỗi đổi thay, khác biệt của từng cá nhân theo thời gian và không gian.  Đồng thời cũng nên biết không có hiện tượng nào thuần Âm hoặc thuần Dương, mà bao gồm cả Âm lẫn Dương.  Trong sinh hoạt hàng ngày cũng như trong chữa trị bệnh, chúng ta tuân theo nguyên lý này; lẽ dĩ nhiên có lúc Dương hơn và có lúc cần Âm hơn.  Phép Dinh Dưỡng Cần Được Tuân thủ Triệt Để từ Ba Tuần đến Một Tháng Vài phản ứng có thể xảy ra cần được biết đến vào thời kỳ đầu sau khi áp dụng phương pháp dinh dưỡng này:           -  Cảm giác suy nhược, cảm thấy chân bị bại liệt từng phần, do nơi nguồn gốc tâm linh và cũng do nơi giảm thiểu số luợng huyết dịch lưu thông trong cơ thể, sau khoảng 15 ngày đến 1 tháng, trạng chứng này sẽ mất đi.             Thường tim đập chậm lại, nhất là khi ta dùng một số lượng muối khá nhiều, vô hại.             -  Đau đầu thường xảy ra vào những ngày đầu trong thời gian ăn số 7.            -  Trạng thái buồn nôn, cũng thuờng hay mửa cả đồ ăn và mật (đảm trấp), ớn cơm (nói chung các đồ ăn ngũ cốc).  Đừng ngại cứ ăn ít lại, vài ngày sau sẽ ăn ngon trở lại, vẫn cứ làm việc như bình thường.             -  Chảy máu cam máu mũi, đôi khi thổ huyết, hoặc tiện huyết (phẩn có vấy máu).  Cũng gặp trường hợp chảy máu tai; hầu hết các trạng thái khủng hoảng này đều được cải thiện sau đó.             -  Nhất là ở thiếu nữ thường có sự ngưng chỉ kinh nguyệt, thay đổi từ 1 đến 6 tháng, sau đó kinh nguyệt sẽ trở lại.             -  Về phía nam giới, đôi khi có trạng chứng bất lực trong một thời gian ngắn, có thể cũng cùng một trạng chứng như trên.             -  Rất thường xảy ra trường hợp táo bón vào lúc đầu do nơi sự thiếu nước và do sự giảm thiểu số lượng thực phẩm, nhưng không có gì đáng quan tâm, chớ dùng thuốc nhuận trường, không có nguy hại vì không có đản bạch tinh (proteins) động vật. Chịu khó chờ đợi, sự đi tiểu sẽ được điều hòa trở lại.  Trong một thời kỳ nào đó, nghe phân không có mùi hôi thúi gì cả.             -  Trong tháng đầu, hầu hết đều gầy hẳn xuống. -  Ở những người mắc bệnh phong thấp thường có sự gia tăng đau nhức và sưng khớp xương tạm thời.             -  Về phương diện tinh thần, hình như luôn có một thời kỳ hay nổi xung (dễ phát cáu), chán đời do một số nơi cảm giác khát nước đến bắt khó chịu.  Người ta thường hay bỏ cuộc vào thời kỳ này, việc rất thường thấy; cần phải tiên liệu trước để chịu đựng.             -  Giấc ngủ bị rút ngắn lại, thường có mộng mị liên miên vào lúc đầu, đôi khi rất nhanh; nhưng trái lại, không hề có sự mất ngủ.             -  Thường thường nước tiểu có mầu rất đậm và chứa nhiều chất lạ. Cả đến khi khối lượng nước tiểu trong trở lại, nhưng vẫn phải giữ cho được màu vàng sẫm.  Đôi khi có trường hợp sưng bọng đái nhẹ.             -  Đôi khi có phản ứng cảm sốt bất thình lình trong vòng 24 đến 48 giờ, rồi dứt đi cũng thình lình như thế mà không thấy có dấu hiệu chi hết.             -  Mặc dù có cảm giác mệt mỏi lúc đầu, cũng cần phải tiếp tục công việc và cố gắng tập một vài cử động thể dục hàng ngày.             -  Sự tiếp tục dùng thức ăn thuộc động vật trong khi giảm uống và ăn nhiều muối thêm sẽ rất có hại.

Clb Network Marketing
Clb Internet Marketing
Clb Sức Khỏe

Network Marketing Powerful
Secrets Internet Marketing
Tool Internet Marketing

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2011

KHÁM PHÁ MỚI VỀ GẠO LỨC

Gạo lức là một loại thực phẩm nhiều dinh dưỡng khi so sánh với gạo trắng. Tuy nhiên, nó còn gia tăng nhiều dinh dưỡng hơn nữa khi được đem ngâm trong nước ấm, lâu khoảng 22 giờ. Đây là một khám phá mới nhất của khoa học. Một nhóm các nhà khoa học Nhật Bản đã tìm thấy gạo lức ngâm lâu 22 tiếng đồng hồ chứa rất nhiều chất bổ dưỡng vì gạo lức ở trạng thái nẩy mầm. "Các enzyme ngủ trong hạt gạo ở trạng thái này được kích thích hoạt động và cung cấp tối đa các chất dinh dưỡng." Dr. Hiroshi Kayahara, giáo sư khoa sinh học và kỹ thuật sinh học tại viện đại học Shinshu University ở Nagano, đã nói như vậy trong bài tường trình kết quả nghiên cứu của nhóm ông tại hội nghị hóa học quốc tế "The 2000 International Chemical Congress of Pacific Basin Societies" ở Hawaii vào cuối năm 2000 vừa qua. "Mầm gạo lức chứa nhiều chất xơ, vitamins và chất khoáng hơn là gạo lức chưa ngâm nước" Kayahara viết trong tờ trình. Gạo lức đã ngâm nước chứa gấp ba lần chất lysine, một loại amino acid cần thiết cho sự tăng trưởng và bảo trì các mô tế bào cơ thể con người, và chứa mười lần nhiều hơn chất gamma-aminobutyric acid, một chất acid tốt bảo vệ bộ phận thận (kidneys). Các khoa học gia cũng tìm thấy trong mầm gạo lức có chứa một loại enzyme, có tác dụng ngăn chặn prolylendopeptidase và điều hòa các hoạt động ở trung ương não bộ. Gạo lức nẩy mầm không những chỉ đem lại nhiều chất dinh dưỡng mà còn nấu rất dễ dàng và cung ứng cho chúng ta một khẩu vị hơi ngọt vì các enzymes đã tác động vào các chất đường và chất đạm trong hạt gạo, tiến sĩ Kayahara nói thêm. Gạo trắng không nẩy mầm khi ngâm như vậy. Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ USDA thường nhấn mạnh đến nhóm hạt nguyên chất (whole grains), như gạo lức, là thành phần chủ yếu trong chế độ dinh dưỡng. Gạo lức cung cấp nhiều complex carbohydrate. Chất xơ (fiber), chất dầu, vitamins và chất khoáng cũng được tìm thấy nơi phần bọc ngoài của hạt gạo lức. Một cup gạo lức nấu chín cung cấp khoảng 230 calories, 3,5 gram chất xơ, 5 gram chất đạm, 50 gram carbohydrate và các chất sinh tố Vitamin B 6, Thiamin B 1, Riboflavin B 2, Niacin B 3, Folacin, Vìtamin E, cùng các chất khoáng khác. Theo nhiều nghiên cứu khoa học cho biết chất xơ trong gạo lức giúp phòng ngừa các bệnh liên quan đến đường tiêu hóa và bệnh tim mạch. Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ khuyến cáo nên dùng 25 grams chất xơ mỗi ngày. Với một cup cơm gạo lức cung cấp 3.5 g, trong khi đó một cup cơm gạo trắng chỉ cho có 1 g. Một thành phần quan trọng khác là chất dầu trong vỏ bọc ngoài của gạo lức có tác dụng giảm cholesterol trong máu, một yếu tố quan trọng gây nên bệnh tim mạch. Các nhà khoa học đã tìm thấy ở trong chất cám bọc ngoài hạt gạo lức có chất dầu tên là tocotrienol factor (TRF) có tác dụng khử trừ những chất hóa học gây nên hiện tượng đông máu và đồng thời giảm cholesterol. Bác sĩ Asaf Qureshi thuộc viện đại học Wisconsin, Hoa Kỳ đã thử nghiệm TRF trên một số người và cho kết quả giảm cholesterol từ 12 đến 16%. Ngoài ra, trong chất cám bọc ngoài gạo lức còn có thêm một chất khác có khả năng chống lại chất xúc tác enzyme HMG-CoA, một chất có khuynh hướng giúp gia tăng lượng cholesterol xấu LDL. Được biết, hội nghị Hóa Học Quốc Tế International Chemical Congress được bảo trợ bởi: the American Chemical Society, the Chemical Society of Japan, the Canadian Society of Chemistry, the Royal Australian Chemical Institute, and the New Zealand Institute of Chemistry. Tham Chiếu: - Reuters Health Information Date Published: Dec 18 2000 16:11:14 Date Reviewed: Dec 18 2000 - ABC Science Online, Australia 19 December 2000 - Thực Phẩm Rau Đậu Qua Lăng Kính Khoa Học, Tâm Diệu, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ 1997, 171- 174.

Clb Network Marketing
Clb Internet Marketing
Clb Sức Khỏe

Network Marketing Powerful
Secrets Internet Marketing
Tool Internet Marketing

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

CÁCH NẤU CƠM GẠO LỨC VÀ RANG MÈ

PHÂN LƯỢNG GẠO LỨC, NƯỚC VÀ MUỐI:   Một lon gạo (lon sữa bò) + hai lon nước (lon sữa bò) + một phần tư muỗng cà phê muối hầm (chú ý, không được dùng muối iốt “iode” và muối bột, muối đã chế biến).  Lượng nước có thể thêm bớt tùy theo loại gạo.   CÁCH NẤU GẠO LỨC BẰNG NỒI THƯỜNG:   (Không được nấu bằng nồi cơm điện):  Nấu nước sôi, đổ gạo và một pbần tư muỗng cà phê muối hầm vô nước sôi, khuấy đều, đậy nắp, nấu cho sôi bùng lên rồi tắt lửa.  Nhắc nồi xuống vẫn đậy nắp để 15 phút.  Sau đó, nhắc nồi lên bếp, nấu tiếp lửa nhỏ cho đến khi chín.   CÁCH NẤU GẠO LỨC BẰNG ÁP SUẤT:   Một gạo + một rưỡi nước (đong bằng lon sữa bò) + một phần tư muỗng cà phê muối hầm.  Cho gạo, nước, muối vô nồi một lượt.  Nấu sôi xì hơi, tắt lửa.
Để 15 phút.  Sau đó, nấu tiếp, lửa nhỏ, cho đến khi chín.   CÁCH NẤU CƠM GẠO LỨC TỐT NHẤT:  CHƯNG CÁCH THỦY BẰNG NỒI ÁP SUẤT :   Một chén gạo lức nấu với hơn một chén nước.  Nếu cơm khô, thêm nước, nếu cơm nhão, bớt nước (1 ký gạo lức + 1 muỗng cà phê muối hầm).  Gạo lức + nước + muối để vô tô và đặt tô này vào nồi áp suất có nước.  Nước trong nồi áp suất cho vừa đủ để khi nấu sôi lên không bị tràn nước vào tô gạo.  Bật lửa, chưng cách thủy tô gạo lức đã có nước, đến khi nghe sôi kêu nồi đợt đầu 15 phút, tắt lửa, để yên đó.  Sau 20 phút, bật lửa lên nấu tiếp, nghe sôi kêu nồi đợt hai 5 phút thì tắt lửa.  Để 30 phút sau là chín cơm.   CÁCH NẤU CƠM GẠO LỨC BẰNG CÁCH CHƯNG CÁCH THỦY TRONG NỒI THƯỜNG:   Một chén gạo lức nấu với hơn một chén nước (1 ký gạo lức + 1 muỗng cà phê muối hầm).  Nếu cơm khô,

thêm nước, nếu cơm nhão, bớt nước.  Gạo lức + nước + muối để vô tô và đặt tô này vào nồi có nước.  Nước trong nồi cho vừa đủ để khi nấu sôi lên không bị tràn nước vào tô gạo.  Bật lửa, chưng cách thủy tô gạo lức đã có nước, đến khi nghe sôi xì hơi đợt đầu 30 phút, tắt lửa để yên đó.  Sau 15 phút, bật lửa lên nấu tiếp, nghe sôi xì hơi đợt hai 10 phút thì tắt lửa.  Để 30 phút sau là chín cơm.   CÁCH GIỮ CƠM GẠO LỨC KHÔNG THIU:   Không đậy nắp kín mà dùng rá để đậy nồi cơm.  Không được để cơm trong tủ lạnh.   CÁCH HÂM CƠM GẠO LỨC:   Khoét một lỗ tròn giữa nồi cơm cho đến đụng đáy nồi, đổ nước vô, (lượng nước đủ tráng đáy nồi để cơm không bị khét khi hâm).  Đậy nắp nồi cơm, nấu cho nước bốc hơi lên, mở nắp hồi khuấy đều.  Dùng muỗng ép cơm cho bằng mặt và cứng.  Đậy nắp nồi, để lửa riu riu khoảng 5 phút, tắt lửa.

CÁCH RANG MÈ:   Mè vàng còn vỏ, đổ mè vào thau nước đầy, đãi vớt lấy mè nổi trên mặt nước và bỏ sạn cát chìm xuống dưới thau.  Phơi khô mè sạch đã vớt, đựng trong hộp đậy nắp.  Nếu mua mè sạch, không phải đãi nữa.   Khi rang mè, nhúng tay cho ướt để bóp sơ mè cho thấm nước mới rang thì mè thơm hơn là rang khô.  Rang lửa đều và nhỏ, khuấy đều mè, đến khi nghe mè nổ lách tách, rang thêm nột chút nữa là mè chín.   Đổ mè chín ra thau, phải đậy kín liền.  Mười phút sau, mè nguội, bỏ vô cối nghiền chung với muối hầm.  (nghiền, không phải giã).  Một muỗng cà phê muối hầm nghiền với 12 muỗng mè.  Phân lượng này thay đổi tùy theo tuổi tác và loại bệnh.  Mè trộn muối rồi chỉ được sử dùng 4 ngày.  Ăn tiếp, phải rang mè mới.   CÁCH ĂN CƠM GẠO LỨC VỚI MUỐI MÈ:   Khi múc cơm ra chén, không được xới cơm đều, chỉ xắn cơm trong nồi từ trên xuống dưới để lấy đủ âm dương.  Ăn bao nhiêu thì xắn bấy nhiêu ra chén.  Để nguyên phần cơm dư ngày mai, không được xới lên.  Một chén cơm trộn đều với 4 muỗng cà phê muối mè đã nghiền.   Ăn bằng muỗng cà phê, một lần ăn 1 muỗng cà phê cơm trộn mè, không được nhiều hơn, để nhai nát cơm cho dễ.  Phải nhai cho đến khi cơm thành nước và cảm thấy ngọt mới được nuốt và chỉ nuốt một lần, không được nuốt nhiều lần; vì nuốt nhiều lần sẽ bị khát nước.  Khi ăn không được hở môi, không dược nói chuyện.  Ăn bất cứ giờ nào, không cần đúng bữa.  Trước khi ngủ hai tiếng, không được ăn.  Dùng số lượng chén cơm nhiều ít tùy ý, nhưng không nên ăn no một lần, một chén cơm có thể ăn nhiều lần.

Clb Network Marketing
Clb Internet Marketing
Clb Sức Khỏe

Network Marketing Powerful
Secrets Internet Marketing
Tool Internet Marketing